Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghiệp vụ khai HQ 2016 Môn thi BÀI TẬP TÌNH HUỐNG VỀ PHÁP LUẬT HẢI QUAN Read less
Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghiệp vụ khai HQ 2016 Môn thi BÀI TẬP TÌNH HUỐNG VỀ PHÁP LUẬT HẢI QUAN Read less
“1. Bên bán phải sửa chữa vật và bảo đảm vật có đủ các tiêu chuẩn chất lượng hoặc có đủ các đặc tính đã cam kết.
Như vậy, theo quy định trên, anh Long có trách nhiệm phải sửa chữa chiếc tủ lạnh cho anh A trong thời gian bảo hành. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 448 cũng đã ghi nhận, bên bán chịu chi phí về sửa chữa và vận chuyển vật đến nơi sửa chữa và từ nơi sửa chữa đến nơi cư trú hoặc trụ sở của bên mua; do đó, chi phí vận chuyển 800.000 đồng anh Long phải tự chịu mà không được quyền yêu cầu anh A thanh toán.
Tình huống 62. Anh Trần Văn X đến Đại lý ôtô Honda MĐ mua chiếc ôtô Honda Civic 1.8AT với giá 780.000.000 triệu đồng. Công ty Honda Việt Nam chịu trách nhiệm bảo hành cho mỗi chiếc xe về các khiếm khuyết kĩ thuật trong 3 năm hoặc 100.000 km, tùy điều kiện nào đến trước. Khi sử dụng xe được một tuần, trên đường đi qua khu chợ đông người mặc dù X đã đạp chân phanh nhưng xe bị mất phanh không hãm được tốc độ; do đó, xe đã đâm vào chị M (người đi đường) khiến chị gẫy chân và chữa trị hết 25 triệu đồng. Khi X mang xe đến đại lý bảo hành, qua quá trình kiểm tra thì được nhân viên kĩ thuật cho biết, xe không phanh được do hệ thống trợ lực phanh bị lỗi kĩ thuật, mất điện đột ngột; lỗi này dẫn đến tài xế không phanh được xe như mong muốn. Bên đại lý có trách nhiệm bảo hành cho xe ô tô của X. Bên cạnh đó, X yêu cầu đại lý bán hàng phải chịu trách nhiệm bồi thường 25 triệu đồng cho chị M. Tuy nhiên, bên đại lý Honda MĐ không chấp thuận yêu cầu này dẫn đến hai bên xảy ra tranh chấp. Hãy giải quyết tình huống.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 449 BLDS năm 2015: “Ngoài việc yêu cầu thực hiện các biện pháp bảo hành, bên mua có quyền yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại do khuyết tật về kỹ thuật của vật gây ra trong thời hạn bảo hành”. Như vậy, theo tình huống trên, do xe ô tô bị lỗi kỹ thuật với hệ thống phanh nên mới dẫn đến tình huống xe mất phanh và đâm vào chị M. Có thể khẳng định, thiệt hại xảy ra cho chị M xuất phát từ khuyết tật về kỹ thuật của xe ô tô. Do đó, anh X có quyền yêu cần bên bán phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định trên.
Tình huống 63. Anh Hà, anh Hùng và anh Khánh là ba người chuyên buôn đồ cổ. Ba anh thỏa thuận cùng nhau góp tiền để mua chung chiếc lu bằng gốm cổ với giá 300 triệu đồng. Đây là hiện vật của dòng gốm cổ Biên Hoà, vô cùng quý hiếm. Sau khi mua xong, anh Hà và anh Hùng thỏa thuận kí kết hợp đồng bán đấu giá chiếc lu cổ với Công ty bán đấu giá tài sản X. Do anh Khánh đang đi công tác ở nước ngoài nên anh Hà và anh Hùng tự quyết mọi vấn đề; anh Khánh chỉ được thông báo về việc bán đấu giá chiếc lu sau khi hợp đồng bán đấu giá được giao kết xong. Không đồng ý với quyết định của anh Hà và anh Hùng, anh Khánh yêu cầu hủy hợp đồng bán đấu giá tài sản giữa công ty X và anh Hà, anh Hùng.Hãy giải quyết tình huống.
Theo quy định tại Điều 451 BLDS năm 2015: “Tài sản có thể được đem bán đấu giá theo ý chí của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật. Tài sản thuộc sở hữu chung đem bán đấu giá phải có sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu chung, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Theo tình huống, anh Hà, anh Hùng và anh Khánh cùng góp tiền mua chung chiếc lu; do đó, chiếc lu cổ là sở hữu chung của ba người. Theo quy định trên, khi mang chiếc lu bán đấu giá thì phải được sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu chung. Nhưng khi giao kết hợp đồng bán đấu giá vì anh Khánh đi công tác ở nước ngoài nên việc bán đấu giá chiếc lu chỉ được quyết định bởi anh Hà và anh Hùng mà anh Khánh không được biết và không được thể hiện ý chí của mình. Do đó, việc giao kết hợp đồng bán đấu giá của anh Hà và anh Hùng với công ty bán đấu giá X không hợp pháp. Anh Khánh có quyền không công nhận và yêu cầu hủy bỏ hợp đồng bán đấu giá chiếc lu.
Tình huống 64. Do cần vốn làm ăn nên vợ chồng anh Lê Xuân Biên đã mang bộ trường kỷbằng gỗ cây gõ mật bán cho anh Lộc với giá 200 triệu đồng, Vợ chồng anh Biên cho biết, bộ ghế này được ông bà anh mua từ trước năm 1950 và đã qua nhiều thế hệ sử dụng; do đó, vợ chồng anh thỏa thuận với anh Lộc khi nào có tiền thì cho vợ chồng anh chuộc lại và được anh Lộc đồng ý. 11 tháng sau, vợ chồng anh Biên mang 200 triệu đồng chuộc lại bộ trường kỷ nhưng anh Lộc không đồng tình vì anh đã kí hợp đồng bán bộ trường kỷ này cho người khác với giá 300 triệu đồng và đang chờ 5 ngày nữa sẽ giao. Vợ chồng anh Biên không đồng tình dẫn đến tranh chấp xảy ra.Hãy giải quyết tình huống.
Theo quy định tại Điều 454 BLDS năm 2015: “Thời hạn chuộc lại tài sản do các bên thoả thuận; trường hợp không có thỏa thuận thì thời hạn chuộc lại không quá 01 năm đối với động sản và 05 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm giao tài sản, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Trong thời hạn này, bên bán có quyền chuộc lại bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên mua trong một thời gian hợp lý. Giá chuộc lại là giá thị trường tại thời điểm và địa điểm chuộc lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
Theo tình huống trên, sau khi bán bộ trường kỷ được 11 tháng thì vợ chồng anh Biên đã chuộc lại tài sản; do đó, tại thời điểm chuộc lại hoàn toàn phù hợp với quy định của luật. Trong thời hạn chuộc lại, bên mua không được xác lập giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản cho chủ thể khác. Như vậy, có thể khẳng định vợ chồng anh Biên hoàn toàn có quyền chuộc lại bộ trường kỷ; anh Lộc không được quyền bán cho người khác. Vì các bên không có thỏa thuận từ trước nên giá chuộc lại là giá thị trường tại thời điểm và địa điểm chuộc lại.
Tình huống 65. Do đang có nhu cầu mang laptop đi công tác để giải quyết công việc, chị Nhung đã mượn chiếc laptop HP của bạn mình là chị Hằng trong thời gian 5 ngày. Sau thời gian công tác về, chị Nhung báo với chị Hằng là chiếc laptop bị trộm lấy mất khi chị để ở trong phòng tại khách sạn chị ở trong thời gian công tác.Vì chiếc laptop đã sử dụng lâu năm và xuống cấp nên khách sạn chỉ bồi thường 1 triệu đồng. Vì nghĩ tình bạn bè thân thiết lâu năm và sự việc xảy ra cũng không ai mong muốn nên chị Hằng đành chấp thuận. Tuy nhiên sau đó chị Hằng được chị Lan là người đi công tác cùng chị Nhung cho biết, thực chất chiếc laptop không phải bị mất mà do chị Nhung đổi chiếc laptop lấy chiếc máy tính bảng Sam Sung của chị. Vì chị Lan nghĩ đó là laptop của chị Nhung nên mới đồng ý đổi.Hãy giải quyết tình huống để bảo vệ quyền lợi cho chị Hằng và chị Lan.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 455 BLDS năm 2015: “Trường hợp một bên trao đổi cho bên kia tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc không được chủ sở hữu ủy quyền thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Chiếc laptop mà chị Nhung dùng để trao đổi lấy chiếc máy tính bảng Sam Sung của chị Lan không thuộc sở hữu của chị Nhung. Đồng thời, việc trao đổi này không được chị Hằng – là chủ sở hữu chiếc laptop biết. Do đó, theo quy định trên, chị Lan có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng trao đổi. Khi hợp đồng được hủy bỏ thì các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, cụ thể: chị Lan được nhận lại chiếc máy tính bảng của mình; còn chiếc laptop được giao trả lại cho chị Hằng – chủ sở hữu đích thực của tài sản.
Tình huống 66. Vợ chồng ông bà Hạnh có hai người con trai là Mạnh và Hải. Khi anh Mạnh chuẩn bị lập gia đình thì ông bà Hạnh có chia cho anh 120 m2 đất để xây nhà. Việc cho đất chỉ được được lập giấy viết tay, có chữ kí của vợ chồng ông bà Hạnh và anh Mạnh. Sau 6 năm kết hôn, vợ chồng anh Mạnh xây nhà trên mảnh đất mà anh Mạnh được chia trước khi lấy vợ. Trong quá trình chung sống, mâu thuẫn nảy sinh giữa vợ chồng ông bà Hạnh với vợ chồng anh Mạnh. Vợ chồng anh Mạnh thường xuyên hỗn láo và cãi nhau với vợ chồng ông bà Hạnh. Tức giận vì sự bất hiếu của người con, ông bà Hạnh đòi anh Mạnh phải trả lại đất cho mình nhưng anh không đồng ý. Xin hay cho biết pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này.
– Hợp đồng xác lập giữa vợ chồng ông bà Hạnh và anh Mạnh là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Theo quy định tại Điều 459 BLDS năm 2015: “Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật”. Đối chiếu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông bà Hạnh và anh mạnh với điều kiện trên thì hợp đồng này vi phạm về hình thức vì hợp đồng mới chỉ được viết tay mà chưa được công chứng, chứng thực.
– Hợp đồng vi phạm về hình thức thì việc giải quyết áp dụng khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015. Mặc dù hợp đồng tặng cho chưa được công chứng, chứng thực nhưng ông bà Hạnh đã giao đất cho anh Mạnh; đồng thời anh Mạnh đã nhận đất và đã tiến hành xây nhà trên diện tích được giao. Nên các bên trong hợp đồng đã thực hiện xong nghĩa vụ trong hợp đồng tặng cho tài sản. Bởi vậy, ông bà Hạnh không có quyền đòi đất của anh Mạnh. Anh Mạnh có quyền yêu cầu Tòa ra quyết định công nhận hiệu lực của hợp đồng.
Tình huống 67. Vào dịp cuối năm, vợ chồng anh Quyết đầu tư vốn buôn loa đài, dàn hát karaoke để phục vụ cho nhu cầu mua sắm gần tết. Do thiếu vốn nên vợ chồng anh vay 150 triệu đồng của anh Hiệp. Khi vay, vợ chồng anh Quyết cam kết dùng số tiền vay để nhập loa, đài buôn bán và sẽ trả nợ cho anh Hiệp trong vòng 3 tháng kể từ khi vay. Tuy nhiên, sau khi vay xong, vợ chồng anh Quyết được bạn rủ góp vốn nhập rượu ngoại về bán vì giáp tết thì nhu cầu mua rượu tăng cao và bán rượu ngoại thu lãi rất lớn. Vợ chồng anh Quyết đã dùng số tiền vay của anh Hiệp để góp vốn mua rượu ngoại với bạn. Biết được thông tin này, anh Hiệp đã yêu cầu vợ chồng anh Quyết trả tiền cho mình nhưng vợ chồng anh Quyết không đồng ý vì vợ chồng anh mới vay tiền được 1 tháng chưa hết thời hạn trả nợ mà các bên đã thỏa thuận. Hãy giải quyết tình huống.
Theo quy định tại Điều 467 BLDS năm 2015: “Các bên có thể thoả thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay. Bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời hạn nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích”.
Như tình huống nêu trên, vợ chồng anh Quyết đã dùng số tiền vay của anh Hiệp để góp vốn mua rượu ngoại với bạn mà không phải để nhập loa, đài buôn bán như đã cam kết với anh Hiệp. Do đó, vợ chồng anh Quyết được xác định là sử dụng tiền vay không đúng với mục đích vay. Theo quy định trên, anh Hiệp có quyền yêu cầu vợ chồng anh Quyết trả 150 triệu đồng trước thời hạn trả nợ mà 2 bên đã thỏa thuận.
Tình huống 68. Do chơi lô đề, cá độ bóng đá nên anh Đồng vay nợ rất nhiều người. Để trả nợ, Anh Đồng tiếp tục vay chị Linh số tiền 300 triệu đồng.Hai bên thỏa thuận, sau 1 năm anh Đồng phải trả cả gốc và lãi cho chị Linh là 390 triệu đồng. Hỏi: Lãi suất do các bên thỏa thuận có hợp pháp hay không?
– Khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015 quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”.
Vậy trong trường hợp này: chị Linh cho anh Đồng vay 300 triệu đồng, tiền lãi là 90 triệu đồng trong vòng 12 tháng. Vậy lãi suất theo năm là = 90.000.000/300.000.000 x 100% = 30%/năm. Mức lãi suất này đã vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay; do đó, mức lãi suất 30%/năm không được chấp thuận. Theo quy định trên, trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn là 20%/năm thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Do vậy, mức lãi suất để tính lãi tối đa trong tình huống này là: 20%/năm.
Tình huống 69. Gia đình anh Trung nuôi một đàn trâu 6 con chuyên dùng cho thuê để làm sức kéo. Vào vụ mùa đông xuân anh Trung cho anh Lai thuê khoán cả đàn trâu nhà mình trong cả vụ với mục đích anh Lai dùng trâu để cày ruộng thuê lấy tiền. Anh Lai giao 6 con trâu cho 6 người anh Lai thuê để đi cày bừa thuê cho các gia đình trong xóm, mỗi ngày công anh Lai trả cho họ là 200.000 đồng/người/ngày. Vào cuối mùa vụ khi các ruộng đã được cày gần xong hết thì công việc ít nên anh đã mang 2 con trâu mà anh thuê của anh Trung cho anh Lợi thuê trong thời gian còn lại của vụ mùa đông xuân mà không thông báo cho anh Trung biết. Hỏi: Anh Lai có quyền cho anh Lợi thuê lại trâu của anh Trung không? Tại sao?Giả sử trong thời gian thuê khoán, có con trâu đẻ ra con nghé thì con nghé thuộc sở hữu của ai?Cở sở pháp lý áp dụng để giải quyết.
Anh Lai không có quyền cho anh Lợi thuê lại 2 con trâu của anh Trung. Vì theo quy định tại khoản 3 Điều 508: “Bên thuê khoán không được cho thuê khoán lại, trừ trường hợp bên được cho thuê khoán đồng ý”. Việc anh Lai cho anh Lợi thuê khoán lại là làm trái quy định của pháp luật, vi phạm nghĩa vụ của người thuê khoán.
Trong thời gian thuê khoán, con trâu đẻ ra con nghé thì cả bên cho thuê là anh Trung và bên thuê khoán là anh Lai đều được hưởng một nửa số gia súc con vì theo quy định tại Điều 491 BLDS năm 2015: “Trong thời hạn thuê khoán gia súc, bên thuê khoán được hưởng một nửa số gia súc sinh ra và phải chịu một nửa thiệt hại về gia súc thuê khoán do sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
Tình huống 70. Ba anh Hoàng, Hưng và Lai giao kết hợp đồng hợp tác để cùng thực hiện dịch vụ vận chuyển hàng hóa tại chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Theo sự thỏa thuận của các bên, anh Hoàng góp chiếc xe bán tải mà gia đình anh đang sử dụng, còn anh Hưng và anh Lai mỗi người góp 150 triệu đồng để mua thêm một chiếc xe tải chở hàng loại nhỏ. Ba anh cam kết phải góp tài sản trong vòng thời gian 1 tuần sau khi giao kết hợp đồng hợp tác. Tuy nhiên, đến khi hết thời gian góp tài sản, chỉ anh Hoàng và anh Hưng thực hiện theo đúng cam kết; còn anh Lai thì mới góp được 50 triệu đồng, 100 triệu đồng còn lại anh Lai góp quá thời gian cam kết 3 tuần. Hỏi: Trách nhiệm của anh Lai đối với việc chậm góp tiền của mình?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 506 BLDS năm 2015: “Trường hợp có thỏa thuận về góp tiền mà thành viên hợp tác chậm thực hiện thì phải có trách nhiệm trả lãi đối với phần tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này và phải bồi thường thiệt hại”.
Dẫn chiếu tới Điều 357 BLDS năm 2015: Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015. Đây là tình huống mà các bên không có thỏa thuận về lãi suất do chậm trả tiền; do đó, mức lãi suất được áp dụng để tính là 10%/năm (khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015).
Từ các căn cứ trên, số tiền lãi mà anh Lai phải trả do chậm góp số tiền 100 triệu trong vòng 3 tháng là: 100 triệu x (10%/năm :12) x 3 tháng = 2.500.000 đồng.
Tình huống71. Ông Nguyễn Thành Nam, ông Trần Hoàng và bà Phan Thanh dự định cùng góp vốn thực hiện việc đấu thầu ao cá tại xã nơi các ông bà đang cư trú. Để tránh rủi ro xảy ra nên các ông bà quyết định sẽ lập một hợp đồng ghi nhận nội dung thỏa thuận của bên. Tuy nhiên, các ông bà loay hoay không biết sẽ ký hợp đồng này với tên gọi gì và có nội dung như thế nào. Xin hãy cho biết pháp luật quy định như thế nào về nội dung hợp đồng?
Do nhu cầu của các ông bà chỉ là cùng đóng góp vốn thực hiện một hoạt động cụ thể, không có nhu cầu thành lập một pháp nhân chung nên theo quy định tại Điều 504 BLDS năm 2015, các ông bà có thể ký kết hợp đồng mang tên Hợp đồng hợp tác.
Theo quy định tại Điều 505 BLDS năm 2015, nội dung Hợp đồng hợp tác giữa các ông bà cần có các nội dung cơ bản sau:
Tình huống 72. Ông Nguyễn Văn Hoàng, ông Trần Long và ông Phan Hải cùng đóng góp 1 tỉ 500 triệu đồng hợp tác thực hiện công việc cung cấp dịch vụ vận chuyển có người lái. Để thực hiện việc hợp tác, mỗi ông đóng góp 500 triệu và thống nhất mua 3 chiếc xe ô tô 4 chỗ và mỗi chiếc mang tên một người tham gia trong hợp đồng hợp tác trên cơ sở hợp đồng ủy quyền. Thời hạn hợp tác trong 3 năm kể từ ngày thực hiện việc hợp tác. Khi thực hiện hợp đồng hợp tác được 12 tháng, ông Trần Long có nhu cầu tiền nên bán một chiếc xe mang tên chủ sở hữu là ông. Sau khi ông Long bán xe, hai thành viên còn lại phản đối và buộc ông Long hủy hợp đồng mua bán. Ông Long cho rằng chiếc xe mang tên mình, hơn nữa bản thân ông cũng đóng góp tiền mua xe nên ông có quyền. Ba ông quyết định đến văn phòng luật sư đề nghị được tư vấn.
Tình huống 73. Công ty TNHH hai thành viên trở lên Hoàng Thanh (gọi tắt là công ty Hoàng Thanh) đặt hàng với Công ty may Chiến Thắng may cho mình 500 bộ đồng phục cho nam và nữ nhân viên. Hai công ty thỏa thuận, vải sẽ do công ty may Chiến Thắng cung cấp trên cơ sở công ty Hoàng Thanh duyệt. Thời gian thực hiện hợp đồng là 2 tháng kể từ ngày hợp đồng ký kết. Công ty Hoàng Thanh có quyền kiểm tra hàng trước khi bàn giao vào ngày thứ 50 của thời hạn thực hiện hợp đồng. Đến ngày kiểm tra hàng, công ty Hoàng Thanh sang công ty mau Chiến Thắng kiểm tra hàng thấy số lượng mới hoàn thành được một nửa. Công ty may Chiến Thắng giải thích rằng họ vừa bán 150 bộ trang phục cho công ty khác do công ty này cũng rất thích các sản phẩm này. Công ty Hoàng Thanh yêu cầu công ty may Chiến Thắng phải bồi thường thiệt hại vì bản thân công ty may này không phải là chủ sở hữu tài sản nên không có quyền định đoạt. Bản thân công ty may Chiến Thắng cho rằng mình là chủ sở hữu nên đương nhiên có quyền bán các sản phẩm này cho công ty khác. Sau khi phát sinh tranh chấp, hai công ty đến yêu cầu tư vấn từ các chuyên gia pháp lý để có cách giải quyết thích đáng.
Theo thỏa thuận của các bên là công ty Hoàng Thanh đặt công ty may Chiến Thắng may 500 bộ đồng phục theo mẫu đã được chọn lựa. Mặc dù công ty may Chiến Thắng cung cấp nguyên vật liệu nên được hiểu chính công ty này đã thực hiện hợp đồng mua bán nguyên vật liệu (vải may quần áo) cho công ty Hoàng Thanh nhưng đối tượng chính trong thỏa thuận giữa hai công ty là công việc gia công tạo nên 500 bộ đồng phục. Do vậy, đối tượng hợp đồng mà đem lại kết quả 500 bộ đồng phục theo mẫu do bên công ty Hoàng Thanh chọn lựa là một công việc. Chính vì thế, đây là hợp đồng gia công theo quy định Điều 543 BLDS năm 2015. 500 bộ đồng phục là vật được tạo nên trên cơ sở mẫu có sẵn do các bên thỏa thuận. Chính vì vậy, chủ sở hữu của 500 bộ đồng phục phải là công ty may Hoàng Thanh. Công ty may Chiến Thắng chỉ là chủ thể có nghĩa vụ chiếm hữu, quản lý và giao các vật này sau khi hoàn thành công việc cho bên thuê gia công (công ty Hoàng Thanh).
Tình huống74. Ông Hoàng Nam đặt hộ gia đình ông Trần Mạnh – chuyên sản xuất đồ gỗ – một bộ bàn ghế uống nước (gồm 1 bàn, 1 ghế dài, 2 ghế đơn) theo phong cách cổ, một giường đôi có kích thước 1,6m x 2m và một bộ bàn ghế ăn (gồm 1 bàn và 6 ghế) theo các mẫu đã được khách hàng lựa chọn, quyết định. Thời hạn thực hiện hợp đồng là 2/1/2017. Đến ngày hết hạn hợp đồng, gia đình ông Trần Mạnh cho xe ô tô chở đến nhà riêng ông Hoàng Nam để giao hàng theo như địa điểm thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, khi xe vận chuyển nhà ông Trần Mạnh chở đến nơi thì không có bất cứ ai ở nhà nhận hàng. Xe chở đồ không thể đợi được nên buộc ông Trần Mạnh phải thuê một gian kho của bà Thanh Lan hàng xóm nhà ông Hoàng Nam để các sản phẩm này với giá thuê là hai trăm nghìn đồng/đêm và ông đã báo ngay cho ông Hoàng Nam về việc này. Tuy nhiên, không may là đêm đó nhà bà Thanh Lan bị chập điện dẫn đến hỏa hoạn khiến cho bộ bàn ghế ăn bị cháy. Mọi người chỉ kịp sơ tán được bộ bàn ghế uống nước và chiếc giường. Ngày hôm sau khi ông Hoàng Nam trở về nhà, biết tình hình liền yêu cầu gia đình ông Trần Mạnh phải đóng bù cho gia đình nhà mình bộ bàn ghế ăn. Bản thân ông cũng không chi trả số tiền thuê gian kho cho bà Thanh Lan. Từ ý kiến này dẫn đến hai ông Hoàng Nam và Trần Mạnh phát sinh mâu thuẫn và cần được tư vấn xem chủ thể nào chịu rủi ro trong tình huống này.
Theo quy định tại Điều 548 và khoản 2 Điều 550 BLDS năm 2015 thì:
Tình huống 75. Anh Hoàng đặt may bộ quần áo comple tại cửa hàng may quần áo Hoàng Mùi với giá tiền công là 2 triệu. Thời hạn thực hiện hợp đồng là 20 ngày kể từ ngày tiến hành đo quần áo. Khi cửa hàng may Hoàng Mùi yêu cầu lựa chọn mẫu mã để may thì anh Hoàng đề nghị chủ cửa hàng tự chọn vì theo anh, chủ cửa hàng nắm rõ xu hướng thời trang và có kinh nghiệm lựa chọn để phù hợp với từng khách hàng. Đến hạn giao sản phẩm, anh Hoàng đến mặc thử thì anh thấy bộ comple không hợp với dáng anh và anh không cảm thấy đẹp. Tuy nhiên, vì bộ comple đã may xong nên anh vẫn lấy xong anh yêu cầu tiền công giảm một nửa, tức còn 1 triệu đồng. Ông chủ hàng may Hoàng Mùi từ chối giảm tiền công và yêu cầu hai bên cùng đến gặp chuyên gia pháp lý để có những ý kiến tư vấn hợp lý, hợp pháp.
Theo quy định tại Điều 552 BLDS năm 2015, bên đặt gia công không có quyền giảm tiền công trong hai trường hợp là sản phẩm không bảo đảm chất lượng do nguyên vật liệu mà mình đã cung cấp hoặc do sự chỉ dẫn không hợp lý của mình. Trong trường hợp này, khi anh Hoàng đồng ý cho ông chủ cửa hàng may Hoàng Mùi có quyền lựa chọn mẫu mã có nghĩa là anh hoàn toàn đồng ý với những mẫu mã mà ông này quyết định. Do đó, chính anh Hoàng có lỗi trong việc đưa ra chỉ dẫn khách hàng cho bên nhận gia công. Vì nằm trong các trường hợp pháp luật quy định không cho phép giảm tiền công nên buộc anh Hoàng vẫn phải thực hiện trả tiền công theo như nội dung thỏa thuận ban đầu.
Tình huống 76. Ông Thành có một chú chó cảnh dòng chó Phốc màu vàng nâu. Ngày 15/1/2017, con trai ông đi chơi về quên đóng cổng nên đến chiều tối, gia đình ông không thấy con chó trong nhà. Ông Thành suy đoán là con chó nhà ông đã chạy ra đường khi con trai ông quên đóng cổng. Với mong muốn tìm được chú chó, ông Thành đăng lên facebook của cá nhân với thông tin là bất cứ ai tìm được chó hoặc cung cấp thông tin liên quan đến con chó nhà ông và có hình kèm theo để mọi người dễ nhận diện thì ông sẽ cảm ơn bằng một chiếc điện thoại có giá trị 3 triệu đồng. Ngay sau khi đọc được thông báo trên, Nam (21 tuổi) miệt mài vào các trang dành cho người yêu chó hay các trang rao vặt để xem có thông tin nào liên quan đến chú chó của ông Thành không. Khi thấy có thông tin, Nam liền báo cho ông Thành và ông Thành đã đến gặp người đang chiếm hữu chú chó của ông. Sau đó, ông có đăng trên chính facebook của mình thể hiện niềm vui khi tìm được chú chó. Nam thấy ông Thành không đề cập đến việc trả thưởng theo như thông báo liền thắc mắc nhưng bị ông Thành từ chối. Ông Thành cho rằng đó chỉ là thông báo vu vơ chứ không phải tuyên bố hứa thưởng như Nam khẳng định. Nam rất bức xúc và yêu cầu chuyên gia tư vấn pháp lý có những phân tích để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Theo như quy định tại Điều 570 BLDS năm 2015 cho thấy, thông báo của ông Thành trên mạng xã hội facebook đáp ứng điều kiện của một tuyên bố hứa thưởng. Ông Thành đưa ra điều kiện thực hiện một công việc cụ thể, có thể thực hiện được, không trái đạo đức xã hội và được thông báo công khai. Do đó, ông Nam không thể viện cớ là một thông báo vu vơ để phủ nhận nghĩa vụ của mình được phát sinh sau khi thực hiện hành vi tuyên bố hứa thưởng.
Tình huống 77. Công ty TNHH Hoàng Long muốn xây dựng nhãn hiệu cho mình nên thông báo rằng bất kỳ cá nhân nào thiết kế lô gô mà được công ty chọn sử dụng thì sẽ được nhận phần thưởng trị giá 20 triệu đồng. Thời hạn nộp lô gô là 20 ngày kể từ ngày thông báo công khai. Thời hạn tuyên bố lô gô được chọn là 3 ngày kể từ ngày hết hạn nộp lô gô. Ngay sau khi đưa ra thông báo có rất nhiều cá nhân tham gia. Đến hạn nộp các hình lô gô, công ty Hoàng Long nhận được tổng cộng 88 lô gô từ 88 cá nhân, nhóm cá nhân khác nhau. Lô gô được chọn do nhóm Sáng tạo (gồm 3 thành viên) thực hiện. Khi tiến hành trao thưởng, công ty Hoàng Long bối rối không biết phải trao thưởng như thế nào cho các thành viên nhóm Sáng tạo nên yêu cầu các chuyên gia tư vấn pháp lý có những ý kiến tư vấn cho mình.
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 572 BLDS năm 2015 thì khi nhiều người cùng cộng tác để thực hiện công việc được hứa thưởng do người hứa thưởng yêu cầu thì mỗi người được nhận một phần của phần thưởng tương ứng với phần đóng góp của mình. Do đó, trong trường hợp này, nếu không xác định được phần đóng góp của các thành viên trong nhóm Sáng tạo thì các thành viên sẽ chia đều phần thưởng 20 triệu từ công ty Hoàng Long.
Tình huống 78. Để thúc đẩy hoạt động du lịch tại Quảng Ninh, công ty cổ phần Tuần Châu quyết định tổ chức cuộc thi mang tên Người đẹp Tuần Châu dành cho phụ nữ ở độ tuổi từ 18 đến 25, chưa kết hôn lần nào, không bị kết án, có lối sống lành mạnh, có đạo đức và không bị dư luận lên án về các hành vi trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Sau khi cuộc thi kết thúc, ban tổ chức đã lựa chọn được Hoa khôi là Trịnh Thu Dung, Á khôi 1 là Hoàng Thanh Mai và Á khôi 2 là Lương Hoàng Lan. Đối với những người chiến thắng, ban tổ chức tiến hành trao các phần thưởng bằng hiện vật do các nhà tài trợ công bố còn phần thưởng bằng tiền thì ban tổ chức xin lỗi do chưa nhận được từ một số nhà tài trợ đã cam kết. Do vậy, ban tổ chức sẽ trao thưởng bằng tiền ngay khi nhận được tiền từ nhà tài trợ. Không đồng ý với quan điểm này, những cá nhân dành được chiến thắng yêu cầu các chuyên gia tư vấn pháp lý có những ý kiến nhất định để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Theo quy định tại Điều 573 BLDS năm 2015, công ty cổ phần Tuần Châu đã tổ chức cuộc thi có giải. Do đó, nghĩa vụ của công ty này là phải trao giải cho những cá nhân tham gia và đoạt được giải thưởng.
Khi mức giải thưởng đã được công bố công khai thì bên tổ chức thi có giải có nghĩa vụ trao giải cho người đạt giải như mức đã công bố. Do đó, ban tổ chức không được viện cớ là nhà tài trợ chưa chuyển tiền để trao giải thưởng để trì hoãn việc trao giải này trừ trường hợp trong điều kiện trao giải thưởng quy định rất rõ khi nào mới trao giải thưởng đối với người đạt giải.
Tình huống 79. Ông Giang bắt được con bò lạc đi lẫn vào đàn bò của mình. Sau 2 tháng, con bò này sinh ra con bê con. 4 tháng kể từ ngày bắt được con bò lạc, ông Thiên đến nhà ông Giang xin nhận lại con bò của mình sau khi nghe thông tin nhà ông này có bắt được một con bò lạc. Sauk hi đưa ra các bằng chứng, dấu hiệu để nhận diện con bò của mình, ông Giang đồng ý trả lại con bò với điều kiện ông Thiên phải thanh toán tiền chăm con bò lạc của ông trong 4 tháng và không được đòi con bê. Ông Thiện cho rằng việc giữ lại con bên của ông Giang là không đúng quy định pháp luật nên đã đến và yêu cầu chuyên gia tư vấn pháp lý cho mình lời khuyên.
Theo quy định tại Điều 579 BLDS năm 2015, ông Giang chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật thì ông này có nghĩa vụ hoàn trả cho người sở hữu hoặc người có quyền đối với con bò lạc này.
Việc chiếm hữu của ông Giang là chiếm hữu không có căn cứ và không ngay tình vì ông hoàn toàn nhận thức được mình không phải là chủ sở hữu con bò nên theo quy định tại Khoản 1 Điều 581 BLDS năm 2015, ông Giang có nghĩa vụ phải hoàn trả cả con bê – là hoa lợi của con bò lạc – cho chủ sở hữu là ông Thiên.
Tình huống 80. Anh Thanh có nhặt được một chiếc cặp da nhãn hiệu Lacos dành cho nam giới màu nâu. Trong chiếc nắp cặp có in chữ Minh và có danh thiếp mang tên Hoàng Minh cài trong cặp. Anh Thanh có ý định trả lại anh Minh. Đến ngày hẹn trả, anh Thanh phát hiện ra con trai mình ở nhà lấy bút vẽ bậy lên cặp, lấy dao dọc giấy để khắc tên lên cặp khiến cho chiếc cặp bị rách. Chính vì vậy, anh Thanh quyết định đi mua một chiếc cặp cùng loại với chiếc cặp này để trả anh Minh. Anh Minh rất bối rối vì chiếc cặp này do người bạn thân tặng nên anh không muốn dùng một chiếc cặp cùng loại để thay thế cho chiếc cặp kia. Anh Minh liên lạc với chuyên gia tư vấn pháp lý để có được lời khuyên.
Khi nghe anh Minh trình bày, chuyên gia tư vấn pháp lý chỉ ra quy định tại Khoản 3 Điều 580 BLDS năm 2015 về việc hoàn trả tài sản là vật cùng loại nhưng tài sản bị mất hoặc hư hỏng thì người có nghĩa vụ hoàn trả có quyền dùng vật cùng loại khác để thay thế. Do đó, trong trường hợp này, anh Thanh có quyền mua chiếc cặp cùng loại để hoàn trả cho anh Minh thay cho chiếc cặp đã bị con trai anh Thanh làm hỏng.
Tình huống 81: Nhà ông Hồng có nuôi một đàn 5 con bò cái, trong đó có một con đã có mang và chuẩn bị đẻ. Trong lúc chăn thả, con bò cái đang có mang đã bị lạc sang làng bên cạnh và vào vườn rau nhà ông Sơn. Ông Sơn phát hiện ra con bò cái lạ lạc vào vườn nhà mình lúc nửa đêm, nên đã giữ lại và sáng sớm hôm sau dắt sang làng khác giao bán. Do đang có nhu cầu, nên ông Nam đã mua con bò với giá 20 triệu mà không hề hay biết đó là con bò thất lạc của gia đình ông Hồng. Nuôi trong vòng một tuần thì con bò đẻ ra con bê. Vì con bò cái và con bê con được sinh ra là giống bò tốt nên gia đình ông Nam đã giữa lại với mục đích nuôi làm giống. Nửa tháng sau khi con bò sinh con, gia đình ông Nam đã mang bò và bê đi chăn thả. Trong lúc đang chăn thả con bò thì ông Hồng đi qua và phát hiện ra con bò thất lạc gần 1 tháng của nhà mình nên ngỏ ý chuộc lại con bò và cả con bê, nhưng ông Nam không đồng ý. Tranh chấp phát sinh, nên ông Hồng đã yêu cầu Ủy ban nhân dân xã giải quyết buộc ông Nam phải trả lại bò và bê cho gia đình ông. Gia đình ông Nam có phải trả lại bò và bê cho ông Hồng không?
Trong tình huống này có thể xác định ông Nam là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình đối với con bò của ông Hồng. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 579 Bộ luật dân sự năm 2015, ông Nam có nghĩa vụ hoàn trả tài sản cho ông Hồng. Tuy nhiên, tài sản hoàn trả trong trường hợp này chỉ gồm con bò (tài sản gốc) theo quy định tại Điều 580 Bộ luật dân sự năm 2015.
Đối với con bê (hoa lợi) được sinh ra trong thời gian gia đình ông Nam chiếm hữu con bò thì sẽ không phải trả lại cho ông Hồng. Bởi vì, theo quy định tại khoản 2 Điều 581 Bộ luật dân sự năm 2015, ông Nam chỉ phải trả lại những con bê được sinh ra sau khi ông đã biết con bò ông mua của ông Sơn thuộc sở hữu của ông Hồng. Trong khi đó, con bê được sinh ra trong vòng 2 tuần thì ông Nam mới biết việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật.
Tình huống 82: A cho B mượn máy tính xách tay VIO. Trong quá trình sử dụng, B làm vỡ màn hình. Tuy nhiên, không những không trả lại máy tính và bồi thường cho A mà B còn bán chiếc máy tính đó cho C. Do C không biết đó là máy tính của A nên C đã mua chiếc máy tính với giá 10 triệu đồng. Sau khi mua, C đã mang chiếc máy tính đi thay màn hình hết 3 triệu đồng. Sử dụng chiếc máy tính được 5 ngày thì A phát hiện sự việc và đòi lại chiếc máy tính từ C. Xác định nghĩa vụ của A đối với C sau khi C trả lại chiếc máy tính cho A?
Trong tình huống này, C được xác định là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. Sau khi mua chiếc máy tính, C đã bỏ ra 3 triệu để thay màn hình máy tính bị vỡ. Do đó, sau khi A đã đòi được chiếc máy tính từ C thì A phải có nghĩa vụ thanh toán cho C số tiền 3 triệu mà C đã phải bỏ ra để thay màn hình máy tính theo quy định tại Điều 583 Bộ luật dân sự năm 2015.
Tình huống 83: Anh Hùng là lái xe của Công ty vận tải X, được Công ty giao nhiệm vụ vận chuyển tài sản từ Hà Nội xuống Hải phòng. Nhận thấy đường đông xe qua lại và nhiều lối rẽ ngang từ khu dân cư nên anh Hùng lái xe rất bình tĩnh, đúng tốc độ và đi đúng phần đường quy định. Khi xe đang lưu thông qua đoạn thành phố Hải Dương, bất ngờ anh Trường điều khiển xe gắn máy tạt ngang qua mặt xe của anh Hùng, khiến cho anh Hùng không kịp phanh và lao vào xe máy do anh Trường Điều khiển. Hậu quả, anh Trường bị gẫy chân và tổn thương phần mềm, xe máy do anh điều khiển bị thiệt hại nặng. Sau khi xảy ra vụ việc, gia đình anh Trường yêu cầu anh Hùng và Công ty X phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cho anh Trường nhưng anh Hùng và Công ty X không đồng ý. Xin hỏi anh Hùng có phải bồi thường thiệt hại cho anh Trường không?
Trong tình huống này, khi xảy ra thiệt hại, anh Hùng đang lái xe đúng tốc độ và đúng phần đường quy định, nên anh không bị coi là có lỗi đối với thiệt hại xảy ra với anh Trường. Lỗi đối với thiệt hại trong tình huống này hoàn toàn thuộc về anh Trường. Do đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015, anh Hùng không phải bồi thường thiệt hại cho anh Trường.
Tình huống 84: Ngày 03/01/2017, do ngủ quên nên anh Cường lái xe chở con đến trường với tốc độ cao. Khi đến đoạn ngã tư Nguyễn Chí Thanh – La Thành, mặc dù đang đèn xanh nhưng do sợ con muộn giờ học nhưng anh Cường vẫn lái xe với tốc độ vượt quá mức quy định. Đúng lúc đó, do sợ muộn giờ làm nên anh Cương đã điều khiển xe mô tô vượt đèn đỏ và cắt ngay mặt xe của anh Cường, nên hai xe đã va chạm vào nhau. Hậu quả, xe anh Cương bị đổ nghiên và vỡ yếm xe, còn anh Cương bị gãy tay phải và rách phần đùi phải. Tổng thiệt hại cả về sức khỏe và tài sản đối với anh Cương là 150 triệu. Xin hãy xác định trách nhiệm của mỗi người trong tình huống trên?
Trong tình huống này, cả anh Cường và anh Cương đều có lỗi đối với thiệt hại xảy ra với anh Cương. Lỗi của anh Cường là phóng nhanh quá tốc độ cho phép, lỗi của anh Cương là vượt đèn đỏ. Do đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015, anh Cương sẽ không được bồi thường phần thiệt hại tương ứng do lỗi của mình gây ra. Tức là cơ quan có thẩm quyền sẽ xác định mức độ lỗi của mỗi bên để xác định mức thiệt hại mà anh Cường phải bồi thường cho anh Cương và mức thiệt hại mà anh Cương phải tự chịu.
Tình huống 85: Minh và Hoàng đều sinh năm 2010 và cùng làng với nhau nên chơi thân với nhau. Trong một lần chơi đùa cạnh thùng vôi đã tôi và nguội, Minh đã dùng gậy nghịch để hất vôi trêu đùa với Hoàng. Trong lúc nghịch, một cục vôi đã văng vào mắt Hoàng khiến cho mắt Hoàng bị tổn thương nặng, phải điều trị hết 50 triệu đồng. Sau vụ việc đó, bố mẹ của Hoàng yêu cầu bố mẹ của Minh phải bồi thường thiệt hại, nhưng bố mẹ Minh không đồng ý vì cho rằng trẻ con chơi đùa với nhau không may xảy ra thiệt hại chứ không ai có lỗi, hơn nữa thiệt hại là do Minh gây ra chứ không phải do bố mẹ Minh gây ra. Xin hỏi bố mẹ của Minh có phải bồi thường thiệt hại cho Hoàng không?
Trong tình huống này, tại thời điểm gây thiệt hại, Minh chưa đủ 15 tuổi nên Minh không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Do đó, trong tình huống này, bố mẹ của Minh phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho Hoàng.
Tình huống 86: Gia đình ông Sơn và gia đình ông Nam là hàng xóm của nhau. Do gia đình ông Sơn tiến hành đào móng xây nhà nên đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến căn nhà của gia đình ông Nam. Hậu quả là tường nhà của ông Nam bị nứt một vệt dài từ trên mái xuống móng. Nhận thấy sự nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên gia đình ông Nam phải chuyển ra ở nhà thuê. Chi phí thuê nhà mỗi tháng là 5 triệu đồng. Đồng thời, gia đình ông Nam yêu cầu gia đình ông Sơn phải sửa chữa lại toàn bộ phần tường nhà bị nứt nhưng gia đình ông Sơn từ chối. Do đó, gia đình ông Nam đã phải thuê thợ về sửa nhà hết 50 triệu và trong vòng 02 tháng. Hãy xác định thiệt hại mà gia đình ông Sơn phải bồi thường cho gia đình ông Nam?
Theo quy định tại Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015, thiệt hại mà gia đình ông Sơn phải bồi thường cho gia đình ông Nam gồm:
– Thiệt hại do nhà bị hư hỏng phải sửa chữa là 50 triệu đồng;
– Thiệt hại do gia đình ông Nam không có chỗ ở nên phải đi thuê nhà trong vòng 2 tháng là 10 triệu đồng.
Tình huống 87: Ngày 20/01/2017, ông A lái xe tải chở vật liệu xây dựng từ cửa hàng về nhà để cho thợ xây dựng tiếp tục hoàn thiện công trình cho ông. Trên đường vận chuyển, một thanh sắt rơi xuống và nằm chắn ngang đường đi. Đúng lúc đó, ông B đi xe máy tới không kịp phanh nên đã lao qua thanh sắt và bị trượt bánh xe ngã xuống đường. Hậu quả là ông B bị gẫy chân phải điều trị mất 3 tháng với tổng số tiền lên tới 250 triệu. Trong thời gian đó, con gái ông B phải xin nghỉ việc không lương để chăm sóc cho ông B. Hãy xác định các loại thiệt hại mà ông A phải bồi thường cho ông B?
Trong tình huống này, ông A đã gây ra thiệt hại về sức khỏe cho ông B. Theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015, những thiệt hại mà ông A phải bồi thường bao gồm:
– Chi phí điều trị cho ông B 250 triệu đồng;
– Thu nhập bị mất, hoặc bị giảm sút của ông B (nếu có tính theo mức thực tế);
– Chi phí đi lại, ăn ở và thu nhập bị mất của con gái ông B trong thời gian chăm sóc cho ông B (tính theo mức thực tế một cách hợp lý);
– Một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do ông A và ông B tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng mức tối đa không vượt quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Tình huống 88: Ngày 10/01/2017, A được công ty giao nhiệm vụ chở hàng giao cho đại lý. Trên đường từ địa điểm giao hàng trở về công ty, A đánh xe công ty về qua nhà giải quyết việc gia đình. Trên đường về nhà, xe bất ngờ nổ lốp dẫn đến bị lật bất ngờ, khiến cho bà B đi xe đạp cùng chiều bị xe đè tử vong. Xin hỏi ai phải bồi thường thiệt hại cho thân nhân của bà B và những thiệt hại được bồi thường là gì?
Trong tình huống này, thiệt hại do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (xe bất ngờ nổ lốp). Tuy nhiên, thời điểm xe gây ra thiệt hại, A đang sử dụng xe vào mục đích riêng (sử dụng trái pháp luật). Do đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015, A phải bồi thường thiệt hại cho thân nhân của bà B.
Theo quy định tại Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015, các loại thiệt hại mà A phải bồi thường bao gồm:
– Chi phí hợp lý cho việc mai táng cho bà B;
– Nếu trước khi chết bà B đang phải cấp dưỡng cho ai thì A phải bồi thường cả chi phí cấp dưỡng cho người đó theo quy định chung;
– Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho thân nhân của bà B với mức các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận thì yêu cầu Tòa án xác định nhưng mức tối đa không vượt quá 100 lần mức lương cơ sở do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định.
Tình huống 89: Do mâu thuẫn cá nhân nên A đã chặn đường đánh B và C. Để thực hiện kế hoạch, A đã chuẩn bị một gậy tre dài 1,5 mét với mục đích vụt B và C. Khi B và C đạp xe đến nơi, A đã lao ra vụt mạnh nhưng trúng vào ghi đông xe của B và C đang lưu thông, khiến cho B và C phải nhảy khỏi xe đạp. Ngay sau đó, B và C lao vào giằng gậy của A rồi đẩy A ngã về phía sau. Sau khi bị đẩy ngã, A đã tri hô người dân trong làng chạy ra đánh B và C. B sợ quá nhảy lên xe đạp và yêu cầu C lên xe để cùng đạp xe đi, nhưng C tiếp tục dùng gậy đập mạnh vào đầu A rồi nhảy lên xe của B và cùng đạp xe về nhà. Hậu quả là B bị rách đầu phải khâu và điều trị trong 1 tháng hết 100 triệu đồng. Pháp luật quy định như thế nào về trách nhiệm bồi thường của B và C trong tình huống này?
Trong tình huống này, A đã có hành vi tấn công B và C bằng chiếc gậy tre dài 1,5 mét. Việc B và C tước được gậy của A và đẩy A ngã về phía sau để tránh việc A tiếp tục dùng gậy vụt mình được coi là hành vi phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, ngay sau đó, A lại tiếp tục dùng gậy đập vào đầu B nhằm mục đích khiến B không thể gây thiệt hại cho mình được coi là hành vi vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng. Do đó, theo quy định tại Điều 594 Bộ luật dân sự năm 2015, B không phải bồi thường cho A, nhưng C phải bồi thường thiệt hại cho A vì đã gây ra thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng.
Tình huống 90: Trong lúc A đang bơm xăng từ xe bồn vào cây xăng của ông B tại xã X, C là khách đợi mua xăng đã đứng hút thuốc cạnh đó. A đã cảnh báo nguy hiểm và yêu cầu C dập tắt thuốc lá ngay lập tức. Tuy nhiên, thay vì dùng chân dập tắt điếu thuốc lá đang hút, C lại dùng tay búng điếu thuốc ra đường. Do gió to làm cho điếu thuốc đang cháy dỡ bay lệch hướng và rơi trúng vòi đang bơm xăng vào cây xăng. Ngay lập tức, xe bồn bốc cháy ngùn ngụt. Nhận thấy nguy cơ phát nổ cao, khả năng gây thiệt hại lớn vì lúc đó rất đông người và xe chờ bơm xăng, do đó A đã nhanh chóng điều khiển xe bồn lao qua đường và phi thẳng xuống ruộng lúc nhà ông D chuẩn bị thu hoạch. Sau đó xe bồn phát nổ gây thiệt hại lớn cho ruộng lúa nhà ông D, A may mắn đã nhảy xuống xe kịp thời nên không bị thương. Hãy xác định các loại thiệt hại và chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tình huống trên?
Trong tình huống này, C là người đã gây ra đám cháy xe bồn (nguy cơ gây ra thiệt hại lớn cho người và tài sản đang đợi mua xăng). Để tránh nguy cơ xảy ra thiệt hại lớn, nên A đã điều khiển xe nhanh chóng lao xuống ruộng lúa nhà ông D, khiến cho ruộng lúa bị thiệt hại nặng. Nên có thể thấy, đây là trường hợp thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết.
Đối với thiệt hại về xe bồn và số xăng xe bị cháy, C phải bồi thường vì có lỗi gây ra vụ cháy, nổ xe bồn. Đối với thiệt hại với ruộng lúa của nhà ông D là do C gây ra nhưng lại thuộc phạm vi yêu cầu của tình thế cấp thiết. Do đó, C không phải bồi thường. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với số lúa nhà ông D. Vì theo quy định tại khoản 2 Điều 595, người gây ra tình thế cấp thiết phải bồi thường cho người bị thiệt hại là Công ty xăng dầu và ông D.
Tình huống 91: Năm 1970, Ông Nguyễn Văn L kết hôn với bà Phùng Hải N có 03 người con là Nguyễn Tố A, Nguyễn Hòa B và Nguyễn Hưng T. Năm 2012, ông L qua đời không để lại di chúc. Năm 2013, 03 người con cùng bà N có họp để thỏa thuận phân chia di sản. Thời điểm đó, di sản của ông xác định được là quyền sử dụng 02 căn nhà và 300 triệu đồng tiền mặt. Khi họp bàn những người thừa kế, bà N và anh B, T đều thống nhất quan điểm phân chia di sản theo hướng “02 căn nhà của hai người con trai là B và T, 300 triệu chia cho 04 người (N, B, T và A). A không chấp nhận phương án như vậy vì cho rằng, đã là con thì phải được hưởng như nhau và yêu cầu hai người anh của mình phải thanh toán cho mình phần giá trị tài sản quy đổi thành tiền mà mình được hưởng từ 02 căn nhà. Quan điểm của A là đúng hay sai?
Quan điểm của A trong tình huống trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Pháp luật dân sự quy định, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật[1]. Yếu tố bình đẳng về quyền thừa kế được hiểu là “mọi cá nhân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, già trẻ,… đều có quyền để lại di sản và hưởng di sản như nhau”.
Như vậy, với nguyên tắc trên, A, B, T đều là con của L và N nên cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông L. Cho nên, nếu phân chia di sản thừa kế phải xác định theo từng phần bằng nhau. Ở tình huống này, yêu cầu của A xác định lại phần giá trị tài sản mà mình được hưởng từ 02 căn nhà là phù hợp. Cụ thể, di sản bao gồm 02 căn nhà chia cho 04 người (N, B, T, A).
Tình huống 92: Ngày 10/3/2016, bà H chết. Sau khi mai táng theo phong tục tập quán một thời gian, những người thừa kế của bà yêu cầu chia di sản thừa kế của bà. Hỏi, di sản của bà H có thể được xác định như thế nào?
Khi một cá nhân chết, di sản thừa kế của người này được xác định bao gồm tài sản riêng của người đó, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Với tình huống trên, di sản của bà Hằng có thể xác định dựa trên nhưng cơ sở giả thiết sau:
Thứ nhất, bà Hằng chưa kết hôn.
Những tài sản bà đang sở hữu riêng sẽ trở thành di sản của bà sau khi bà chết. Ngoài ra, việc bà sở hữu chung với người khác sẽ được xác định theo tỷ lệ phần quyền đóng góp, tạo dựng khối tài sản đó. Ví dụ: bà H có bỏ ra 500 triệu để mua chung chiếc ô tô trị giá 1 tỷ đồng với ông Hảo. Khi bà H chết, di sản sẽ được xác định là ½ giá trị chiếc ô tô tại thời điểm bà Hằng chết.
Việc xác định di sản của bà Hằng phải dựa vào các trường hợp sau đây:
Một là, thời điểm bà kết hôn, những tài sản có trước hôn nhân bà có đồng ý sáp nhập vào khối tài sản chung của vợ, chồng hay không. Nếu bà đồng ý hoặc không có căn cứ chứng minh đó là tài sản riêng của bà trước thời kỳ hôn nhân, tài sản đó sẽ là chung của vợ chồng bà[2]. Còn ngược lại, đó sẽ là tài sản riêng và khi bà chết sẽ là di sản của bà.
Hai là, sau khi kết hôn có hai căn cứ để xác định: (i) toàn bộ thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng bà sẽ là tài sản thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng. Khi bà Hằng chết sẽ chia thành hai phần. (ii) trong thời kỳ hôn nhân, bà có được ai đó tặng cho riêng, để lại thừa kế hay không? Nếu có, phần tài sản đó cũng được xác định là riêng của bà.
Ba là, trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng bà có góp vốn tạo lập khối tài sản thuộc sở hữu chung với ai hay không? Nếu có, phần tài sản đó của vợ, chồng bà sẽ được xác định theo tỷ lệ đóng góp và bà có được ½ trong số đó.
Tình huống 93. Ông Hàn Văn Thực chết ngày 10/7/2017 có để lại một căn nhà tọa lạc trên diện tích đất 300m2 tại Thành Phố VY, tỉnh VP. Đồng thời, ông có nợ Ngân hàng X số tiền là 3 tỷ đồng. Hỏi, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của những người thừa kế của ông là từ thời điểm nào?(Biết rằng ông Thực chết không để lại di chúc và ông có vợ cùng 03 người con đều đã thành niên và có khả năng lao động; căn nhà của ông được định giá là 8 tỷ đồng).
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Như vậy, quyền thừa kế di sản và nghĩa vụ tài sản do ông Thực để lại (trả nợ 03 tỷ đồng cho Ngân hàng) cho vợ và 03 người con của ông Thực sẽ phát sinh kể từ thời điểm 10/7/2017.
Theo đó, những người thừa kế (vợ và các con của ông Thực) có quyền yêu cầu phân chia di sản thừa kế từ thời điểm 10/7/2017. Về nguyên tắc, thời điểm này cũng sẽ là thời điểm những người thừa kế sẽ xác lập quyền sở hữu tài sản của mình với di sản thừa kế. Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt, thời điểm xác lập quyền sở hữu sẽ được xác định dựa vào thời điểm khác. Ví dụ: Di sản là nhà ở, quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm xác lập quyền sở hữu sẽ là thời điểm đăng ký sang tên. Hoặc di sản bị tranh chấp thì thời điểm xác lập quyền sở hữu là thời điểm bản án của Tòa án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật… Và cũng tại thời điểm này, những chủ thể có quyền và lợi ích liên quan (Ngân hàng) có quyền yêu cầu những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người để lại di sản.
Tình huống 94: Năm 2017, ông Hà Hữu Th chết có để lại bản di chúc với nội dung như sau: Dành 500 triệu cho người con trai út (anh Hà Hữu B); 300 triệu cho người con thứ (chị Hà Thị H), người con cả (Hà Thị K) không có tên trong phần di chúc chỉ định hưởng nhưng có tên trong phần chỉ định nghĩa vụ “phần nghĩa vụ 1 tỷ do vay nợ Ngân hàng sẽ do con tôi là K sẽ chi trả”. Khi ông chết, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cùng những người thừa kế xác định được ông có 1,6 tỷ đồng, vợ ông chết trước ông. Hỏi chị K có phải trả toàn bộ số nợ 1 tỷ cho Ngân hàng hay không? Tại sao?
Pháp luật quy định người thừa kế được quyền hưởng di sản thừa kế đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Như vậy, người con cả Hà Thị K sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà ông Th để lại. Tuy nhiên, quy định về việc thực hiện nghĩa vụ này lại xác định răng, những người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản họ được hưởng, trừ trường hợp họ tự nguyện thực hiện. Như vậy, để giải quyết triệt để tình huống này, chúng ta cần xác định phần di sản mà mỗi người hưởng, theo đó:
Với kết quả trên và quy định của pháp luật[3], chúng ta phải đặt ra 02 giả thiết như sau:
Tình huống 95. Bà Nguyễn Thị X có chồng là ông Hoàng Y và 03 người con là Hoàng L, Hoàng M, Hoàng T (đều đã thành niên có khả năng lao động). Đầu năm 2017, bà X chết do tai nạn giao thông. Sau khi mai táng, ông Y là chồng vẫn quản lý tài sản và sử dụng tài sản chung của hai ông bà đã có từ trước. Cuối năm 2017, ông có đưa bà Phan H về nhà để sinh sống như vợ, chồng cùng ông. Ông và bà H vẫn quản lý và sử dụng tài sản chung đó, thậm chí còn thu hoa lợi, lợi tức từ nhiều tài sản chung của ông Y và bà X (đã có trong thời kỳ hôn nhân). Những người con có thỏa thuận với bố để phân chia quyền quản lý di sản nhưng ông Y không đồng ý. Ông cho rằng, sau khi vợ ông là bà X chết, ông sẽ là người có quyền quản lý cũng như hưởng toàn bộ di sản thừa kế của bà X. Hỏi, quan điểm của ông Y về việc quản lý di sản thừa kế của bà X có đúng hay không?
Với tình huống trên, quan điểm của ông Y không hoàn toàn chính xác vì các lý do sau:
Kết luận: Ông Y chỉ có thể trở thành người quản lý di sản nếu rơi vào một trong các trường hợp nêu trên.
Tình huống 96. Vẫn những dữ kiện nêu ở tình huống (95) nói trên, ông Y và người phụ nữ (Phan H) chung sống với ông như vợ, chồng vẫn sử dụng công nhiên, khai thác công dụng hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản là di sản mà bà X (một phần) để lại. Các con của ông đã nhiều lần yêu cầu ông và cô H dừng việc khai thác để tránh ảnh hưởng tới giá trị của các loại tài sản đó nhưng ông Y và H vẫn không chấp thuận. Hỏi, nếu vẫn dừng lại ở vấn đề quản lý di sản thừa kế và ông Y có thể trở thành người thừa kế, ông sẽ phải thực hiện các loại nghĩa vụ của mình như thế nào?
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, nếu ông Y trở thành người quản lý di sản (thuộc vào các trường hợp đã phân tích ở trên), ông Y phải có các nghĩa vụ sau:
– Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
– Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
– Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
– Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
– Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
Như vậy, với những nghĩa vụ kể trên, ông Y phải thực hiện để đảm bảo quyền lợi cho các đồng thừa kế khác. Tuy nhiên, cũng với những quy định trên gián tiếp khẳng định, ông Y có quyền khai thác công dụng của tài sản thậm chí hưởng hoa lợi, lợi tức từ di sản nếu không làm ảnh hưởng tới giá trị của tài sản (không có thiệt hại).
Tình huống 97. Với tình huống trên (95), giả sử ông Y là người được bà X chỉ định trong di chúc là người quản lý toàn bộ di sản thừa kế của bà. Đồng thời, sau khi bà chết, Tòa án xác định vụ tai nạn giao thông gây ra cái chết của bà và của anh Phạm G hoàn toàn do lỗi của bà. Bà phải bồi thường thiệt hại 200 triệu đồng cho người thân của anh Phạm G. Hỏi, người thân của anh Phạm G có quyền yêu cầu ông Y bồi thường thiệt hại hay không? Ông Y còn có quyền gì trong khoảng thời gian quản lý di sản hay không?
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, ông Y khi đã trở thành người quản lý di sản thừa kế của bà X (được bà chỉ định trong di chúc) sẽ có các quyền năng sau đây:
Thứ nhất, ông Y có quyền đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế. Theo đó, ông Y có quyền đại diện cho những người thừa kế của bà X để trích 200 triệu đồng bồi thường thiệt hại cho người thân của anh Phạm G.
Thứ hai, ngoài quyền năng trên, ông Y còn được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế khác của bà về việc trông coi, bảo quản di sản thừa kế trong thời gian quản lý di sản.
Thứ ba, ông Y có thể được thanh toán chi phí bảo quản di sản (nếu có).
Tình huống 98. Nguyễn Hoàng là con trai duy nhất của ông Nguyễn Đế, đã có vợ là Phan Phương và con là Nguyễn Chí. Ngày 10/2/2017, ông Nguyễn Đế chết có để lại di chúc cho anh Nguyễn Hoàng được hưởng toàn bộ di sản thừa kế. Tuy nhiên, trước thời điểm này, do làm ăn thua lỗ nên anh Nguyễn Hoàng đang bị công ty ATZ khởi kiện về hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế… Theo đơn khởi kiện này, số tiền anh Hoàng phải trả cho công ty này rất lớn (bao gồm cả tài sản anh có và di sản thừa kế anh được nhận). Tuy nhiên, sau khi bố anh chết, anh đã làm thủ tục để từ chối nhận di sản thừa kế của ông. Nhận thấy có hiện tượng tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ, công ty ATZ khởi kiện yêu cầu bác bỏ quyền từ chối quyền hưởng di sản thừa kế của anh Hoàng. Hỏi, yêu cầu của công ty ATZ có căn cứ pháp lý hay không?
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, anh Nguyễn Hoàng hoàn toàn có quyền từ chối nhận di sản từ cha mình là ông Nguyễn Đế. Tuy nhiên, việc từ chối hưởng di sản thừa kế phải đảm bảo các điều kiện sau:
Thứ nhất, việc từ chối không nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Như vậy, nếu công ty ATZ chứng minh được, việc anh Nguyễn Hoàng từ chối quyền hưởng di sản thừa kế đang nhằm trốn tránh nghĩa vụ với công ty mình thì yêu cầu này của công ty là hoàn toàn là phù hợp.
Thứ hai, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
Thứ ba, việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.
Dựa vào các điều kiện trên, công ty ATZ hoàn toàn có thể bác yêu cầu của anh Nguyễn Hoàng về việc từ chối nhận di sản thừa kế nếu nhận thấy việc từ chối vi phạm một trong các điều kiện nói trên.
Tình huống 99. Ông Đào Văn Ao hỏi bố tôi bị bệnh nhũn não năm 2006. Năm 2008, sức khỏe của ông hồi phục, ông có lập bản di chúc định đoạt toàn bộ tài sản cho tôi. Năm 2017, ông chết, các con của ông trong đó có tôi tranh chấp nhau về nội dung bản di chúc mà ông đã lập. Hỏi, bản di chúc của bố tôi lập có chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã có hợp pháp không?
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, cá nhân có quyền lập di chúc nhưng phải thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, người đó đã thành niên.
Thứ hai, người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.
Với hai điều kiện trên, xét trong tình huống thì di chúc mà bố ông Ao lập sẽ hợp pháp khi thỏa mãn quy định về yếu tố mình mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Do đó, để chứng minh bản di chúc là hợp pháp, ông Ao sẽ phải chứng minh được căn bệnh nhũn não của bố mình đã được khắc phục vào thời điểm năm 2008. Căn bệnh này không ảnh hưởng tới khả năng nhận thức, điều khiển hành vi hay nói cách khác là sự minh mẫn và sáng suốt của ông ấy. Đồng thời, các thủ tục chứng thực bản di chúc tại UBND cấp xã cũng được thực hiện đúng quy định.
Tình huống 100. Ngày 20/3/2017, khi đang tham gia giao thông trên đường, anh Hảo Sĩ Hán có va quyệt với một xe contenner bị thương rất nặng và mất nhiều máu. Trên đường đưa anh đi cấp cứu trên xe cứu thương, anh có trăn trối lại trước 01 bác sĩ và 01 điều dưỡng viên rằng “anh có di nguyện để toàn bộ số tiền tiết kiệm anh có trong ngân hàng X cho vợ anh là bà Mỹ Thị Nhân, anh để lại ngôi nhà 05 tầng trên diện tích đất 100m2 tại Phường X, Quận Y, Tỉnh N cho chị Kiều Nương (người được cho là nhân tình của anh Hán). Hỏi, di nguyện của anh Hảo Sĩ Hán muốn hợp pháp phải thỏa mãn điều kiện nào?
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, một người khi tính mạng bị đe dọa không thể lập di chúc bằng văn bản có quyền lập di chúc miệng. Như vậy, di nguyện của anh Hán trong tình huống trên hoàn toàn có thể đưa vào di chúc và đảm bảo thực hiện ở dạng di chúc miệng, nếu thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, người di chúc miệng (anh Hán) thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng. Hai người làm chứng phải thỏa mãn điều kiện: (i) không phải là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; (ii) không phải là người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; (iii) không phải là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Thứ hai, ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.
Thứ ba, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Như vậy, nếu di chúc của anh Hán thỏa mãn các quy định trên sẽ hợp pháp và phát sinh hiệu lực sau khi anh chết.
[2]Điều 33 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014.